I. Thử nghiệm lâm sàng trên người với việc bổ sung NMM
Trong vài năm qua, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu đánh giá tính an toàn và tác dụng của việc bổ sung NMN ở người để xác định xem các tác dụng quan sát được ở tế bào và mô hình động vật có thể được chuyển sang người hay không. Cho đến nay, thống kê đã xác định được 10 thử nghiệm lâm sàng trên người đã được công bố, mặc dù vẫn còn nhiều nghiên cứu khác chưa được công bố.
Thử nghiệm lâm sàng đầu tiên đánh giá tính an toàn của NMN ở người đến từ Trường Y khoa Đại học Keio (UMIN000021309) vào năm 2016. Để điều tra tính an toàn của NMN, một nghiên cứu ngắn hạn đã được tiến hành trên 10 người đàn ông khỏe mạnh. Trong mỗi lần khám, sau khi nhịn ăn qua đêm, những người tham gia đã uống viên nang NMN chứa 100, 250 hoặc 500 mg NMN lúc 09:00. Sau đó, họ được theo dõi trong 5 giờ khi nghỉ ngơi và chỉ được phép uống nước một cách thoải mái. Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ các chất chuyển hóa NMN (N-methyl-2-pyridine-5-carboxamide [2Py] và N-methyl-4-pyridone-5-carboxamide [4Py]) trong huyết tương người tăng lên do tiêu thụ NMN, nhưng không có triệu chứng lâm sàng đáng kể, tác dụng có hại hoặc thay đổi nhịp tim, huyết áp, độ bão hòa oxy hoặc nhiệt độ cơ thể. Việc dùng NMN một lần lên đến 500 mg là an toàn và được những người tham gia dung nạp tốt.
7 nghiên cứu khác đã tiến hành thử nghiệm lâm sàng trên người với cùng liều NMN uống (250 mg một lần mỗi ngày trong 6 hoặc 12 tuần) hoặc các liều khác nhau (300, 600 và 1200 mg một lần mỗi ngày trong 6 tuần; 300 mg một lần mỗi ngày trong 60 ngày). Liều NMN uống cao nhất được dùng là 1000 mg hai lần mỗi ngày trong 14 ngày của Trường Y Harvard. Những phát hiện của các nghiên cứu này cho thấy rằng việc dùng NMN qua đường uống là an toàn và có khả năng dung nạp tốt. Một cuộc điều tra gần đây đã kiểm tra tính an toàn của NMN ở dạng uống (1250 mg/ngày trong 4 tuần) ở 31 cá nhân khỏe mạnh trong độ tuổi từ 20 đến 65 và tiến hành thử nghiệm Ames. Kết quả cho thấy NMN là một chất không gây đột biến, an toàn và được dung nạp tốt.
Bên cạnh đó, còn nhiều các thử nghiệm lâm sàng đã hoàn thành nhưng chưa công bố và đang diễn ra
Các thử nghiệm lâm sàng đã hoàn thành nhưng chưa công bố và các thử nghiệm lâm sàng đang diễn ra từ clinicaltrials.gov ( https://www.clinicaltrials.gov/ ), Nền tảng đăng ký thử nghiệm lâm sàng quốc tế của WHO ( https://trialsearch.who.int ) và Thử nghiệm lâm sàng tìm kiếm UMIN-CTR ( https://center6.umin.ac.jp/cgi-open-bin/ctr_e/index.cgi?function=02 ). Mục tiêu của các thử nghiệm này bao gồm các khía cạnh sau:
1 ) đánh giá tính an toàn và động học chuyển hóa của can thiệp dinh dưỡng NMN ở người lớn khỏe mạnh (18–70 tuổi);
2 ) điều tra tác động của can thiệp dinh dưỡng NMN đối với nhiều bệnh khác nhau (bao gồm bệnh tiểu đường, bệnh mãn tính, tăng huyết áp, hội chứng buồng trứng đa nang và suy buồng trứng sớm);
3 ) quan sát tác dụng chống lão hóa của can thiệp dinh dưỡng NMN lên da (bao gồm nếp nhăn và vết chân chim, quầng mắt, quầng thâm, kết cấu da, độ ẩm, bọng mắt và độ sáng);
4 ) nghiên cứu những thay đổi ở nhiều mức độ hormone và dấu hiệu lão hóa, chỉ số sinh sản của nam giới, chức năng tim mạch và chuyển hóa, và hoạt động thể chất;
5 ) so sánh tác động của NMN và các tiền chất NAD + khác lên chuyển hóa NAD + trong máu.
II. Đánh giá hiệu quả chống lão hóa:
Hoạt động thể chất:
Bài tập sức bền làm tăng khả năng hiếu khí bằng cách cải thiện chức năng ty thể, chức năng nội mô mạch máu và mật độ cơ mao mạch. Ngoài ra, NMN cũng được báo cáo là cải thiện chức năng ty thể ở nhiều cơ quan chuyển hóa khác nhau (như cơ xương), chức năng nội mô mạch máu, tân sinh mạch, mật độ mao mạch, lưu lượng máu và mức oxy hòa tan ở loài gặm nhấm. Igarashi và cộng sự đã nghiên cứu tác động của can thiệp NMN đối với hoạt động thể chất của những người lớn tuổi. Họ quan sát khả năng vận động cơ sinh lý và nồng độ NAD + trong máu ở 20 nam giới lớn tuổi khỏe mạnh (tuổi ≥65) và NMN (250 mg) hoặc giả dược được dùng một lần một ngày trong 6 hoặc 12 tuần. Can thiệp NMN không ảnh hưởng đến độ nhạy insulin, cơ xương và khối lượng mỡ nội tạng. Tuy nhiên, người ta thấy rằng nó cải thiện đáng kể tốc độ đi lại, sức mạnh cầm nắm bên trái và tần suất của bài kiểm tra đứng lên trên ghế trong 30 giây. Việc bổ sung NMN qua đường uống làm tăng hiệu quả nồng độ NMN và NAD + trong máu và cũng quan sát thấy mức NR tăng lên, cho thấy NMN có thể được chuyển đổi thành NR bởi CD73. Tóm lại, nghiên cứu của Igarashi đã chứng minh rằng NMN là chất tăng cường NAD + hiệu quả để ngăn ngừa rối loạn chức năng cơ liên quan đến lão hóa ở người đã đánh giá tác động của NMN đường uống lên hiệu suất thể chất ở những người lớn tuổi, bao gồm sức mạnh cầm nắm, 5 lần ngồi dậy đứng lên (5-STS), thời gian đứng dậy và đi bộ 5m theo thói quen. Kết quả kiểm tra 5-STS cho tất cả các nhóm sau can thiệp cho thấy sự cải thiện đáng kể so với kết quả trước khi can thiệp. Quy mô hiệu ứng của can thiệp NMN vào buổi chiều (d = 0,72) lớn hơn so với can thiệp vào buổi sáng (d = 0,40). Không có cải thiện đáng kể nào được quan sát thấy trong các mục kiểm tra khác. Nhìn chung, những phát hiện này cho thấy tiềm năng của NMN trong việc cải thiện hiệu suất thể chất ở người lớn tuổi.
Tác động của can thiệp NMN đối với hoạt động thể chất của người trung niên đã được Khoa Y học Thể thao, Đại học Thể thao Quảng Châu, Trung Quốc và Công ty TNHH Effepharm (Thượng Hải), Trung Quốc nghiên cứu. Liao và cộng sự đã tiến hành một thử nghiệm lâm sàng trên người, mù đôi, ngẫu nhiên, có đối chứng giả dược, bao gồm 48 vận động viên chạy bộ giải trí trẻ và trung niên (tuổi từ 27–50). Những người tham gia được chia ngẫu nhiên thành 4 nhóm, mỗi nhóm được dùng 300 mg, 600 mg, 1200 mg NMN hoặc giả dược uống trong 6 tuần. Đồng thời, tất cả những người tham gia đều thực hiện các bài tập aerobic, bao gồm chạy và đạp xe, với các buổi tập kéo dài từ 40 đến 60 phút, 5 đến 6 lần mỗi tuần trong khi uống NMN. Ngoài ra, các xét nghiệm gắng sức tim phổi đã được thực hiện để đánh giá khả năng hiếu khí của những người chạy bộ; Can thiệp NMN làm tăng đáng kể mức tiêu thụ oxy ở ngưỡng thông khí 1 (VT1) và cải thiện mức tiêu thụ năng lượng ở VT1 và VT2. Những kết quả này chỉ ra rằng luyện tập thể chất kết hợp với việc dùng NMN đường uống có thể là một chiến lược mới để cải thiện thành tích của vận động viên. Huang và cộng sự đã tiến hành một bài kiểm tra sức bền đi bộ trong 6 phút cho những người lớn tuổi (40–65 tuổi) sau khi can thiệp NMN (300 mg/ngày trong 60 ngày). Vào ngày thứ 30 của quá trình điều trị, nhóm can thiệp NMN và nhóm dùng giả dược lần lượt cho thấy sức bền đi bộ tăng 4,3% và 3,9%. Khi tiếp tục điều trị tương tự trong tối đa 60 ngày, nhóm can thiệp NMN cho thấy mức tăng thêm 6,5%, trong khi nhóm dùng giả dược không cho thấy mức tăng thêm nào, vẫn ở mức 3,9%. Mặc dù sự khác biệt giữa nhóm can thiệp NMN và nhóm giả dược không có ý nghĩa thống kê trong bài kiểm tra sức bền khi đi bộ trong 6 phút, nhưng rõ ràng là nhóm can thiệp NMN cho thấy sự cải thiện bền bỉ về sức bền khi đi bộ từ ngày thứ 30 đến ngày thứ 60 của quá trình điều trị.
Bệnh tiểu đường:
Đái tháo đường là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa, cắt cụt chi, bệnh tim, suy thận và tử vong sớm. Cho đến nay, vẫn chưa có phương pháp hiệu quả nào để chữa khỏi bệnh tiểu đường. Một nghiên cứu do Yoshino và cộng sự đứng đầu cho thấy NMN có thể làm tăng độ nhạy insulin của cơ, tín hiệu insulin và tái tạo ở những phụ nữ tiền tiểu đường thừa cân hoặc béo phì. Tổng cộng 25 phụ nữ sau mãn kinh bị tiền tiểu đường được phân ngẫu nhiên vào nhóm dùng giả dược ( n = 12, 250 mg/ngày) hoặc nhóm dùng NMN đường uống ( n = 13, 250 mg/ngày) trong 10 tuần.
Nghiên cứu đánh giá các chỉ số sau:
1 ) Chất chuyển hóa NMN và nồng độ NAD + trong huyết tương, PBMC và cơ xương;
2 ) thành phần cơ thể và chỉ số chuyển hóa cơ bản;
3 ) tác động của NMN lên độ nhạy insulin và tín hiệu của cơ xương;
4 ) tác động của NMN lên hồ sơ phiên mã toàn cầu của cơ xương.
Đáng ngạc nhiên là sau khi can thiệp NMN, độ nhạy insulin của những người tham gia đã được cải thiện 25 ± 7%. Điều thú vị là người ta cũng phát hiện ra rằng một loạt các tín hiệu hạ lưu của con đường insulin, bao gồm sự phosphoryl hóa AKT tại Ser473 và Thr308, đã được kích hoạt và biểu hiện của thụ thể yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc từ tiểu cầu (PDGF) β và các gen liên quan đến tái tạo cơ khác đã được điều chỉnh tăng lên. Vì con đường truyền tín hiệu PDGF đã được báo cáo là tăng cường phosphoryl hóa AKT được kích thích bởi insulin và vận chuyển glucose trong cơ xương và nhiều loại tế bào trong các nghiên cứu trước đây, điều này có thể cung cấp một lời giải thích cho tác dụng của NMN trong việc tăng cường độ nhạy insulin của cơ. Ngoài ra, nồng độ NAD + không thay đổi trong cơ xương nhưng tăng đáng kể trong PBMC và các chất chuyển hóa NAD + (2Py và 4Py) tăng đáng kể trong cả PBMC và cơ xương. Sự khác biệt về giới tính đã được quan sát thấy trong tác dụng của NMN đối với khả năng dung nạp glucose ở chuột mắc bệnh tiểu đường và chuột cái nhạy cảm hơn chuột đực. Mặc dù nguyên nhân của sự khác biệt về giới tính vẫn chưa rõ ràng, nhưng kết quả cho thấy rằng phương pháp điều trị NMN có thể cải thiện tình trạng dung nạp glucose bị suy giảm bằng cách cải thiện độ nhạy insulin hoặc tiết insulin. Hơn nữa, tác dụng của sự khác biệt về giới tính đối với khả năng dung nạp glucose cũng cần được xác minh thêm trong các thử nghiệm lâm sàng trên người.
Telomere:
Telomere là 1 đoạn DNA có trình tự (TTAGGG) lặp lại nhiều lần ở đầu mỗi nhiễm sắc thể. Telomere có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ phân tử DNA khỏi các tác động gây hại và sự mất ổn định của hệ genome.
Trong chu trình của một tế bào bình thường thì sau mỗi lần phân chia của tế bào, một phần của telomere sẽ bị mất đi. Khi độ dài của telomere đạt tới mức giới hạn thì tế bào sẽ tự chết theo chương trình (apotosis). Do vậy, độ dài của telomere có thể coi như là một đồng hồ sinh học để xác định “tuổi thọ” của tế bào và các cơ quan. Tuy nhiên, trong quá trình sống, nhiều yếu tố khác có thể khiến cho telomere bị ngắn lại nhanh hơn bao gồm cả việc gây tổn thương tới phân tử DNA nói chung và tổn thương chính xác ở vị trí telomere dẫn tới nhiều ảnh hưởng sức khỏe và tuổi thọ của người.
Sự rút ngắn telomere là một dấu ấn sinh học quan trọng của quá trình lão hóa. NMN đã được báo cáo là duy trì độ dài telomere trong gan chuột. Trong một nghiên cứu khác, Niu et al đã kiểm tra những thay đổi về độ dài telomere ở 8 nam giới trung niên (tuổi 45–60) trước và sau khi uống 300 mg/ngày NMN. Họ phát hiện ra rằng việc bổ sung NMN dẫn đến độ dài telomere tăng gần gấp đôi ở PBMC trong vòng 90 ngày, cho thấy tác dụng chống lão hóa tiềm tàng. Cơ chế cơ bản của NMN đối với việc kéo dài độ dài telomere có thể liên quan đến nồng độ NAD + tăng lên trong gan, ổn định telomere và ngăn ngừa tổn thương mô và xơ hóa theo cách phụ thuộc một phần vào sirtuin-1.
III. Nguyên nhân khiến NAD sụt giảm và liệu pháp bổ sung:
Nguyên nhân:
Khi chúng ta già đi đồng nghĩa với việc NAD trong cơ thể cũng sẽ giảm sút. Và chúng sẽ góp phần đưa chúng ta đến với những căn bệnh về chuyển hóa cũng như bệnh do tuổi tác. Nguyên nhân cụ thể gồm:
Khi tuổi tác ngày càng tăng lên, quá trình phá hủy ADN diễn ra nhanh hơn. Sự phá hủy ADN sẽ kích hoạt PARP enzym, PARP enzym phân giải NAD + trong quá trình sửa chữa ADN. Kết quả là chúng sẽ giảm thiểu.
Enzyme trong hệ miễn dịch cũng hấp thụ NAD +. Hệ thống miễn dịch càng năng động thì phân tử càng bị hao hụt. Enzyme trong hệ thống miễn dịch sẽ tăng lên khi chúng ta đã già đi, đồng nghĩa NAD + sẽ giảm mạnh.
Một loại enzyme tiêu thụ NAD + nữa đó là sirtuin. Chúng duy trì sự ổn định của các nhiễm sắc thể, cùng với đó sẽ sửa chữa luôn ADN. Khi bạn càng già đi, ADN bị phá hủy và nhiễm sắc thể càng bất ổn, lúc này surtuin sẽ tiêu thụ nhiều NAD + hơn.
Khi bạn tiếp xúc nhiều với ánh sáng mặt trời cũng sẽ làm giảm lượng NAD +. Bởi vì cơ thể sử dụng chúng để phục hồi những tổn thương từ tế bào do tiếp xúc với tia UV.
Trong mọi nguyên nhân thì, PARP là chính là thủ phạm lớn nhất. Ở độ tuổi 50, lượng NAD + trong cơ thể chỉ chứa phân nửa so với lúc 20 tuổi. Hậu quả là sự xuất hiện tình trạng béo phì, tim mạch, kháng insulin và lão hóa,…
Sử dụng liệu pháp bổ sung NMN
Mặc dù NAD+ rất quan trọng nhưng khó có thể bổ sung NAD+ vì chỉ khi ở bên trong tế bào NAD+ mới có thể thực hiện chức năng quan trọng của mình. Chính vì thế, bạn có thể dùng liệu pháp NMN thay thế.
Liệu pháp NMN là phương pháp bổ sung NAD+ bằng cách sử dụng chất niacin mononucleotide (NMN) – một phân tử tự nhiên có ở mọi dạng sống đưa vào cơ thể. Đây là tiền chất trực tiếp của phân tử thiết yếu nicotinamide adenine dinucleotide (NAD+) và là phân tử chủ chốt làm tăng nồng độ NAD+ trong tế bào.
Khi bổ sung NMN, NMN sẽ được vận chuyển vào bên trong tế bào và chuyển hóa thành NAD+ thông qua một số enzyme tự nhiên trong cơ thể. Từ đó làm tăng nồng độ của NAD+ và thúc đẩy trao đổi chất, sản xuất năng lượng cho tế bào hoạt động và tồn tại.
Lời kết:
Tế bào luôn là ngọn ngành cho mọi sự sống trên trái đất này. Kể cả con người, cây cối, sinh vật đều cần có tế bào để duy trì sự sống. Và NAD chính là hợp chất có trong tế bào giúp chúng ta có thể làm việc, sinh hoạt, vui chơi cả ngày dài.
NAD (hay NAD+) là tên viết tắt của hợp chất nicotinamide adenine dinucleotide. Đây là một trong những phân tử quan trọng trong quá trình trao đổi chất của tế bào.
Các chất bổ sung NAD+ cung cấp một con đường tiềm năng để làm chậm các tác động tiêu cực của quá trình lão hóa, bao gồm sự phát triển của bệnh mãn tính, mất cơ và mệt mỏi được dẫn chứng qua nhiều thử nghiệm lâm sàng đã được công nhận.
Bằng cách bổ sung mức NAD+ đang suy giảm, mọi người có thể cải thiện chức năng tế bào và sức khỏe tổng thể. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải tìm kiếm sự hướng dẫn từ nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe để đảm bảo việc bổ sung an toàn và phù hợp.
Ảnh: Internet
Nguồn: https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC10721522/